Home Đạo Mẫu- tư liệu ÔNG TÁM BÁT NÙNG
ÔNG TÁM BÁT NÙNG
By Trà My Vũ At 06:03 0
Dành cho các bạn thích tìm hiểu về ĐẠO MẪU
...................................................
Người ta cho rằng, QUAN HOÀNG TÁM không giáng trần nên không có đền thờ và không có thần tích, nhưng có tài liệu lại viết ông có xuống trần và hiện thân là tướng quân Nùng Trí Cao.
TƯỚNG QUÂN NÙNG TRÍ CAO:
Tướng quân Nùng Trí Cao là người dân tộc Nùng. một thủ lĩnh có khí phách phi thường, đã nhiều lần đánh chiếm đất của nhà Tống ( Trung Quốc), chiếm đất của triều đình nhà Lý khiến vua Lý phải khốn đốn song rất nể phục.
Triều đình nhà Lý cũng có lần bắt được ông, nhưng sau đó lại thả ra và phong thêm chức sắc.
Theo " Đại Việt sử kí toàn thư", Nùng Trí Cao là con của ông Nùng Tôn Phúc- Thủ lĩnh châu Thảng Do.
Năm 1038, Nùng Tôn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Xương, xưng " Chiêu Thánh hoàng đế", lập nước Trường Sinh, phong vợ làm Minh Đức hoàng hậu, phong con cả Trí Thông làm Điền Nha Vương, đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.
Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tôn Phúc, bắt ông và con trai cả về kinh xử tử.
Nùng Chí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.
Năm 1041, hai mẹ con ông từ động Lôi Hỏa về chiếm Thảng Do, chiêu tập lực lượng, ;lập nước ĐẠI LỊCH
Triều đình nhà Lý mang quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho ông coi giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động Lôi Hỏa, Bình An, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên.
Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho ông tước Thái Bảo, một chức quan cao cấp thời Lý.
Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở đông Vật Ác ( thuộc đất Tống)
Năm 1050, Ông chiếm được động Vật Dương ( thuộc đất Tống), lập nước NAM THIÊN, đặt hiệu Cảnh Thụy
Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, ông đã dẫn 5000 quân tiến đánh Ung Châu, sau đó xưng NHÂN HẬU HOÀNG ĐẾ, đỏi niên hiệu là KHẢI LỊCH, đặt quốc hiệu ĐẠI NAM
Năm 1053, Địch Thanh viên tướng nhà Tống, dẫn quân đánh Nùng Trí Cao, nhà Lý sai Vũ Nhị tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt
Trên Cao Bằng, ngoài di tích đền Kì Sầm, nhiều địa phương khác cũng có đền thờ ông như huyện Quảng Uyên, huyện Hà Quảng, huyện Thông Nông, huyện Bảo Lạc.
Đền Kỳ Sầm là nơi thờ chính của Nùng Trí Cao. Khu đền khá rộng, khuôn viên đẹp, nhưng chỉ có 2 cung nhỏ nên rất tĩnh mịch, linh thiêng, huyền bí.
Cung phía trước là cung công đồng thờ quan, quân của ngài.
Cung phía sau thờ ngài và thân mẫu cùng 3 bà vợ: Là người Hoa, Kinh, Nùng.
Văn ông Tám Bát Nùng như sau:
Gương anh dũng ngàn xưa lưu để
Đất Cao Bằng tú khí chung linh
Trời nam có đức thánh linh
Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời ./
Giận bạo chúa bao đời áp bức
Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung
Thề rằng không độ trời chung,
Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài./
Dư trăm trận mưa rơi sấm giật
Đôi trượng đồng dạy đất trời long
Bát Nùng nối nghiệp gia phong
Noi gương tiên tổ - họ Nùng - Trí Cao./
Ông Bát Nùng ra vào sinh tử
Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai
Xá gì đạn lạc tên rơi
Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào./
Thân bách chiến ra vào sinh tử
Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao
Trần hoàn nhẹ gánh gian lao
Cõi trời giở sổ Nam Tào có tên./
Rước ông Bát về miền tiên giới
Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn
Nhân dân thờ phụng khói hương
Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng./
Thưở niên thiếu kiếm cung yên ngựa
Sinh vì đời, thác trợ muôn dân
Oai linh lẫm liệt thánh thần
Một lòng vì nước vì dân vì đời./
Gương anh khí sáng ngời muôn thuở
Chí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng
Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao ./