Dành cho các bạn thích tìm hiểu về CHÚA LIỄU HẠNH và ĐẠO MẪU
.........................................
................................
Liễu Hạnh công chúa là con gái của đức vua cha Ngọc Hoàng thượng đế, dó sơ ý làm vỡ ly ngọc mà bị lưu đầy trần gian.
Bà là nữ thần duy nhất trong TỨ BẤT TỬ của Việt Nam, cùng với thần TẢN VIÊN, THÁNH GIÓNG, CHỬ ĐỒNG TỬ.
Qua ba lần giáng sinh hạ giới. CHÚA LIỄU HANH nổi tiếng về sự hiếu đạo, được người đời truyền tụng, suy tôn làm MẸ CỦA MUÔN LOÀI
Bà là biểu tưởng cho sức mạnh của phụ nữ, đề cao hạnh phúc, quyền tự do, độc lập tư tưởng, vừa được kính nể, vừa được yêu mến.
Các nguyên tắc của Mẫu liên quan đến vấn đề trừng phạt kẻ xấu, ban thưởng người tốt là thông điệp về sự công bằng xã hội trong nhân dân ở thời kì loạn lạc từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19
Trong ĐẠO MẪU chúa Liễu Hạnh, là vị thánh chủ, được thờ chính ở Phủ Giày, Vụ Bản, Nam Định, đền Sòng Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Theo tài liệu chép lại thì Mẫu có tích như sau: Bà có tên Phạm Thị Nga- gắn với thuyết ở Phù Nập, tên Lê Thị Thắng - theo ghi nhận gia phả dòng họ Lê, Giáng Tiên, đệ nhị Quỳnh Hoa, Liễu Hạnh, Vân Hương đệ nhất Thánh Mẫu- Theo Vân Cát nữ...
Tuy nhiên, từ xưa tới nay, danh hiệu công chúa Liễu Hạnh, hay Mẫu Liễu Hạnh đã đi sâu vào tâm thức mọi người dân Việt và trở thành thành bất tử.
TAM SINH TAM HÓA:
Tương truyền, chúa Liễu Hạnh là một cô gái xinh đẹp, đã trải qua TAM SINH TAM HÓA, điển tích ghi trong Quảng Cung điền và Quảng cung linh từ phả kí, bà là con gái thứ hai của vua cha Ngọc Hoàng, được giáng sinh vào họ Phạm, tên là Phạm Thị Nga ( ngày 06/3/1434)
Bà là người có nhan sắc nghiêng nứớc nghiêng thành, nhưng không chịu lấy chồng.
Bà quyết tâm ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, cứu giúp người nghèo, tu sửa đền chùa. Nhưng vào ngày 30 tháng 2 năm quý tỵ ( 1473) thời Lê Thánh Tông, thì bà về trời hưởng thọ 40 tuổi.
Lần thứ 2, Mẫu giáng sinh ở thôn Vân Cát ( Phủ Giầy, Vụ Bản Nam Định)
Trong tiệc Bàn Đào, bà sơ ý làm rơi chén ngọc, bị vua cha lưu đày hạ giới, làm con của gia đình Lê Thái Công ở thôn An Thái vào năm Thiên Hựu, đời hậu Lê ( 1557), khi phu nhân Lê Thái Công hạ sinh được cô con gái, ông đặt tên là Giáng Tiên.
Lớn lên, Giáng Tiên xinh đẹp, giỏi văn thơ, đánh đàn, thổi sáo, soạn nhiều bài hát rất hay.
Năm 18 tuổi bà kết hôn cùng Đào Lang, là con của một vị quan trí ở cùng làng.
Ba năm sau, vào ngày 03 tháng 3, Giáng Tiên đột ngột từ trần.
Về thiên cung, bà không nguôi nhớ cha mẹ, chồng con nên đã xin với vua cha cho tiếp tục hạ phàm.
Lần thứ 3, bà đầu thai thành vị nữ thần, cùng đi với Quế Nương và Thị Nương.
Ba tiên nữ đã hiện xuống trần gian giữa ban ngày ở Phố Cát, tỉnh Thanh Hóa, sau đó họ đã chu du khắp đất nước, làm phúc cứu dân.
SẮC PHONG CỦA CÁC TRIỀU VUA:
Để ghi nhân công lao của chúa Liễu Hạnh, các triều đại nhà Lê, rồi Tây Sơn, đến nhà Nguyễn đã ra sắc phong cho bà : " Ban cho họ Trần Lê xã Tiên Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định phụng thờ công chúa Liễu Hạnh, Ngọc nữ tiên đình Đế Thích, vị tôn thần giúp nước, giúp dân, sáng tỏ đức thiêng.
Nay tỏ rõ ơn thân vân lớn, phong làm TRANG HUY DỰC BẢO TRUNG HƯNG THƯỢNG ĐẲNG THẦN, chuẩn y cho phụng thờ, ngô hầu giúp đỡ dân tạ lâu dài, kính vậy thay!"
Dân gian thương nhớ, tôn sùng đã lập đền thờ bà trọng thể ở Phủ Giầy, đền ở Phố Cát, đền Sòng ở Thanh Hóa.
Ở Hà Nội, có thờ vọng bà ở Tây Hồ ( Phủ Tây Hồ).